" Lễ hội" - Tiềm năng du lịch lớn của Cao Bằng - Kiến thức tổ chức sự kiện | Kinh nghiệm tổ chức sự kiện | Tổ chức sự kiện chuyên nghiệp

" Lễ hội" - Tiềm năng du lịch lớn của Cao Bằng

Written By Trangia Event on Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012 | 00:12

                                    Trangia Event- Du lịch lễ hội ở Cao Bằng
(Cinet) – Lễ hội truyền thống ở Cao Bằng diễn ra hàng năm, chủ yếu là vào mùa xuân, mùa của sinh sôi nảy nở. Khi ấy là lúc khí hậu, cảnh sắc thiên nhiên đẹp nhất. Con người thong thả, an nhàn qua một năm vất vả, bắt đầu chuẩn bị cho những mùa vụ tiếp theo. Đây cũng là lúc thuận tiện nhất cho các hoạt động, sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Là tỉnh có nhiều dân tộc anh em sinh sống nên hệ thống lễ hội ở Cao Bằng cũng đa dạng, phong phú: lễ hội lịch sử, lễ hội đền, lễ hội chùa. Các lễ hội đều gắn với tín ngưỡng linh thiêng, huyền bí, thu hút sự quan tâm của nhiều người. Cùng với phong cảnh núi non hùng vĩ, những kiệt tác thiên nhiên tuyệt đẹp như động Ngườm Ngao, thác Bản Giốc, hồ Thang Hen,…
Vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt mỹ, nhiều danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử nổi tiếng, lễ hội truyền thống độc đáo,… càng khiến cho Cao Bằng trở thành điểm hẹn du lịch đầy hấp dẫn.
Tiềm năng du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Những lễ hội đặc sắc của Cao Bằng
Phát triển du lịch lễ hội ở Cao Bằng
 Tiềm năng du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Cao Bằng là vùng đất cổ có bề dày lịch sử, văn hóa, có thế mạnh về tiềm năng du lịch với hệ thống di tích lịch sử cách mạng phong phú như: Cụm di tích lịch sử Pác Bó - cội nguồn cách mạng Việt Nam gắn liền với những năm tháng hoạt động cách mạng của lãnh tụ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; Khu rừng Trần Hưng Đạo- nơi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng; Khu di tích lịch sử Chiến thắng Đông Khê... và những di tích lịch sử văn hóa như: Đền Kỳ Sầm thờ Nùng Chí Cao; Đền Vua Lê thờ vua Lê Thái Tổ..
Cao Bằng được tạo hóa ban tặng cho những tuyệt tác thiên thiên làm say đắm lòng người như: động Ngườm Ngao, thác Bản Giốc, hồ Thang Hen, hồ Khuổi lái, khu du lịch sinh thái Phja Oắc- Phja Đén có độ cao 1.931m so với mặt biển,... Cao Bằng còn có sự phong phú, đa dạng về các tập tục văn hóa truyền thống. Con người Cao Bằng thật thà, mến khách, du khách đến Cao Bằng sẽ được tham gia các lễ hội văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc diễn ra hàng năm như: Hội tung còn, lễ hội mời mẹ trăng, lễ hội xuống đồng, lễ hội tranh đầu pháo,... thưởng thức các làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm như: Nàng ới, Sli, lượn, Pựt lằn, Xà dá... chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo của các làng nghề truyền thống như làng nghề dệt, nhuộm chàm, làng rèn Phúc Sen, nghề dệt thổ cẩm... Tất cả thiên nhiên, con người và văn hóa các dân tộc Cao Bằng đã hòa quyện vào nhau tạo nên một Cao Bằng hùng vĩ nhưng thơ mộng, mượt mà làm ngất ngây lòng người. Từ xa xưa, người Cao Bằng đã thiết tha mời gọi du khách đến với Cao Bằng.
Trong những năm gần đây, các địa điểm du lịch ở Cao Bằng đã và đang được đầu tư xây dựng, từng bước hoàn thiện và đưa vào khai thác phục vụ khách như: Khu di tích lịch sử Pác Bó; Khu du lịch động Ngườm Ngao; khu du lịch sinh thái hồ Thang Hen; Làng Tày cổ Khuổi ky; khu du lịch sinh thái Phja Oắc, Phja Đén. Đồng thời quan tâm đầu tư tu bổ, xây dựng các khu di tích lịch sử cách mạng, di tích lịch sử văn hóa như: Khu di tích rừng Trần Hưng Đạo; Khu di tích Hoàng Đình Giong; Khu di tích chiến dịch Đông Khê; di tích đền Kỳ Sầm; Di tích đền Vua Lê; Di tích chùa Viên Minh; nâng cấp hệ thống giao thông đến các khu, điểm du lịch tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến tham quan.
Bên cạnh đó, các loại hình văn hóa phi vật thể được bảo lưu và phát huy như: hát Then, Sli, lượn, đàn tính... Các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. Đi đôi với đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; đào tạo nguồn nhân lực du lịch, tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch để thu hút khách. Mở rộng hợp tác quốc tế, Du lịch Cao Bằng đã ký kết hợp tác du lịch song phương với các Công ty Du lịch thuộc tỉnh Quảng Tây- Trung Quốc khai thác nguồn khách du lịch hai bên có hiệu quả.
Tất cả những cố gắng đó đã tạo cho du lịch Cao Bằng có những bước tiến đáng khích lệ, lượng khách du lịch tăng bình quân từ 15-17%/năm; doanh thu tăng 17-20%/năm; tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động địa phương, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, tạo khả năng tiêu thụ sản phẩm tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các thành kinh tế khác cùng phát triển; nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và cộng đồng dân cư trong giữ gìn, phát triển di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, việc bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch.
Mặc dù đạt được những kết quả trên nhưng các chỉ tiêu chủ yếu về lượng khách và doanh thu du lịch còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của địa phương; cơ chế chính sách còn có mặt hạn chế, bất cập, thiếu đồng bộ; Quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xúc tiến quảng bá, đào tạo nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm du lịch... còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng với nhu cầu phát triển thực tế.
Lễ hội ở Cao Bằng là một trong những loại hình di sản độc đáo và mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Ở đó thể hiện rất rõ đời sống văn hoá tâm linh, những quan niệm nhân sinh và các sinh hoạt văn hoá dân gian khác. Chính vì thế, lễ hội truyền thống của Cao Bằng là một trong những loại hình văn hoá đặc biệt, có sức thu hút lớn đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Chính vì thế, ngành du lịch Cao Bằng cần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch lễ hội nhằm đáp ứng được nhu cầu của du khách, đồng thời tăng cường được sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Cao Bằng trên thị trường. Dựa trên các đặc trưng văn hóa, các thế mạnh về sinh thái cảnh quan và các yêu cầu đòi hỏi của thị trường mà tạo ra các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù của vùng và của Cao Bằng. Xây dựng các tour du lịch sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh gắn với các di tích lịch sử, lễ hội truyền thống. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm lưu niệm của du lịch Cao Bằng.
Những lễ hội truyền thống đặc sắc của Cao Bằng
Do có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống nên ở Cao Bằng có khá nhiều lễ hội mang những nét đặc trưng riêng của các dân tộc khác nhau. Tuy vậy, nhìn chung các lễ hội đều mang tính nhân văn sâu sắc, hướng thiện, cầu phúc, cầu lộc, cầu mùa, trừ tà và mong muốn cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Bên cạnh đó, còn có các lễ hội tôn vinh những anh hùng chống giặc ngoại xâm, các lễ hội thực hiện các nghi lễ, tập tục của dân tộc…
Ở Cao Bằng, hàng năm có rất nhiều lễ hội nhưng có thể kể đến những lễ hội lớn, có tầm ảnh hưởng rộng và thu hút đông đảo người dân trong vùng cũng như khách thập phương như: Lễ hội Lồng tồng, lễ hội Nàng Hai, lễ hội đền Kỳ Sầm, đền Vua Lê, lễ hội chủa Đà Quận, chùa Giang Động, lễ hội pháo hoa.
Trangia Event- Du lịch lễ hội ở Cao Bằng
1. Lễ hội Lồng Tồng
Là lễ hội quan trọng nhất trong năm của đồng bào người Tày, Nùng, được tổ chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Sau những ngày vui xuân chấm dứt, các bản làng người Tày lại nhộn nhịp chuẩn bị cho lễ hội Lồng Tồng. Gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, lễ hội Lồng tồng được tổ chức nhằm gửi gắm những mong ước của con người, cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, đời sống luôn no ấm.
Lồng Tồng theo tiếng Tày – Nùng hay Lồng Tộng theo tiếng Dao có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang đậm dấu ấn của nền sản xuất nông nghiệp từ phần nghi lễ khi hội, các nghi thức, sản vật dân cúng đến các trò chơi trong lễ hội.
Sau khi thức dân hương kính cáo các vị thần, chủ lễ vạch một đường cày đầu năm, bắt đầu cho cuộc sống nông tang, cày bừa, cấy hái. Dù được tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ, phần lễ vẫn giữ nguyên các nghi thức từ xa xưa. Mở đầu bằng lễ cầu mùa: thày cúng đọc các bài khấn và thực hiện nghi thức tạ thiên địa, cầu thần nông, thần núi, thần suối và Thành hoàng, những vị thần bảo hộ cho mùa màng và sức khoẻ, sự bình yên của dân làng.
Trong lễ hội, mỗi sản vật được dâng cúng đều mang một ý nghĩa thể hiện sự giao hoà của trời đất, thành quả của lao động. Lễ vật chung của dân bản gồm một bát nước, một đĩa xôi đỏ, một đĩa xôi vàng, một con gà luộc, một xâu cá nướng, một bát tiết luộc, một con dao nhọn, một bó vải mới dệt, hai con cá bằng giấy màu vàng, hai con chim cú bằng giấy màu đỏ, hai chùm hoa bằng bỏng gạo cắm trên bẹ chuối, hai chùm quả của cây bồ đao. Xôi đỏ tượng trưng cho mặt trời, xôi vàng tượng trưng cho mặt trăng, chùm quà của cây bồ đao tượng trưng cho hạt gạo…
Đặc biệt, mâm cỗ cúng của các gia đình còn có thêm đôi quả còn với tua rua nhiều màu sắc sặc sỡ rất đẹp. Tất cả đều là những biểu hiện của sự sinh sôi nảy nở và gửi gắm những ước mơ khát khao về cuộc sống ấm no an lành. Một hồi chiêng vang lên, thày mo thắp hương, đọc lời khấn và bắt đầu những nghi lễ. Thày mo tay cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô (do các thiếu nữ đẹp nhất, còn trinh trắng của các bản mường lấy về từ đầu nguồn) ngửa mặt lên trời cầu khấn rồi vảy nước ra khắp bốn phương. Đó cũng là thứ nước tượng trưng cho nước thiêng từ Mường trời tưới xuống nhân gian cho cây cối tươi tốt, cho mùa màng sinh sôi, cho cuộc sống ấm no.
Các hoạt động trong lễ hội là những sinh hoạt văn hoá dân gian hết sức cuốn hút. Đó là hội tung còn, thi hát Sli, hát Lượm, cùng nhiều trò chơi như đi cà kheo, đánh quay, đánh yến, đá cầu, đẩy gậy, đánh đu, chọi gà… Trò ném còn luôn là tâm điểm của ngày hội này. Để chuẩn bị cho hội tung còn ở giữa đám đông lớn, người ta dựng một cây mai cao làm cột, trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính khoảng 50 – 60 cm dán giấy mỏng màu hồng, hai mặt tượng trưng cho Âm – Dương. Tung còn đòi hỏi cả sức khoẻ và sự khéo léo. Khi quả còn được tung lên, ném trúng vòng tròn và xuyên thủng làm rơi giấy là âm – Dương giao hoà, cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. Người con gái nào bắt được quả còn thì năm đó sẽ gặp may mắn trong đường nhân duyên. Việc tung còn trúng vòng tròn, xuyên thủng và rơi giấy âm dương có ý nghĩa rất quan trọng, coi như lời cầu nguyện linh ứng, coi như lễ hội đã thành công. Vì thế, nếu ném còn mà không thủng, không rơi thì phải dùng tên bắn để giấy Âm – Dương rơi xuống.
Những nghi lễ độc đáo, những trò chơi hấp dẫn đầy ý nghĩa trong lễ hội Lồng tồng luôn là những yếu tố thu hút khách du lịch gần xa. Vì thế vào dịp năm mới khắp vùng núi phía Bắc nói chung và Cao Bằng nói riêng luôn tấp nập du khách gần xa. Lễ hội Lồng tồng luôn để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng những ai đã từng tham dự, khiến họ khi trở về luôn mang theo nỗi nhớ khó quên hoặc sự tiếc nuối để hẹn lại mùa xuân năm sau.
2. Lễ hội Nàng Hai
Hội được bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng ba.Theo tín ngưỡng dân gian dân tộc Tày thì trên cung trăng có Mẹ Trăng và mười hai nàng tiên - con gái của mẹ. Mẹ cùng các nàng hằng năm chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân. Hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng các mẹ các nàng ở dưới trần gian hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xuống thăm trần gian và giúp trần gian trong công việc làm ăn để sinh sống.
Thời gian tổ chức hội Nàng Hai phụ thuộc vào thời gian đã quy định ở từng xóm từ thời xa xưa truyền lại; như ở Bản Guống đón trăng vào ngày mùng 6 tháng hai và đưa tiễn trăng vào ngày 24 tháng 3. Bản Nưa Khau đón trăng vào ngày 11 tháng 2 và đưa tiễn trăng vào ngày 22 tháng 3. Bản Ngườm Cuông đón trăng vào ngày 15 tháng 2 và đưa tiễn trăng vào ngày 21 tháng 3.
Để tổ chức hội Nàng Hai, các cụ già trong bản chọn một bà mẹ có cuộc sống gia đình hoàn thiện, hát giỏi để làm Mẹ Trăng, tiếng địa phương gọi là "Mụ cốc" và chọn lấy 12 đến 18 cô gái trẻ đóng vai nàng tiên. Trong các cô này chọn ra hai cô gái chưa chồng để đóng hai chị em trăng. Cô chị gọi là "Nàng Slở", cô em gọi là "Nàng Gường". Chọn lấy hai thiếu niên nam mang lễ đi trước mở đường cho cuộc hành trình các nàng và mẹ trăng đi lên trời.
Trangia Event- Du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Về trang phục: Mẹ Trăng (Mụ cốc) mặc quần áo chàm, trên đầu buộc một dẻ vải đỏ vắt chéo qua trên khăn. Khi hành lễ, đến đoạn múa lên đường, mẹ trăng tay cầm ngọn mía, trên ngọn mía có treo một túi đựng trầu nhỏ, một chiếc mù soa, và một bát nước có đặt một lá bưởi. Bát nước và ngọn mía có ý nghĩa tượng trưng cho việc tẩy uế.
Hai thiếu niên nam mặc quần áo chàm, trên đầu buộc hai dẻ vải đỏ, ngang hông buộc thắt lưng bằng vải đỏ. Đến khi Mẹ Trăng và các nàng tiên làm cuộc hành trình thì hai thiếu niên tay cầm mỗi người một cây trúc nhỏ tỉa cành, chỉ để lại mấy cành ở ngọn, trên ngọn buộc một chiếc khăn tay. Theo tiếng dân tộc hai cây trúc này gọi là cây "cụ tiến". Cây "cụ tiến" với ý nghĩa là mở đường cho Mẹ Trăng và các nàng tiên lên trời cầu các mẹ trăng xuống giúp trần gian trong các công việc làm ăn.
Hai nàng trăng, trăng chị (nàng Slở) thì mặc áo vàng, trên đầu vấn khăn có buộc một dẻ vải màu vàng chéo qua trên khăn, trăng em (nàng Gường) thì mặc áo đỏ, trên đầu buộc dẻ vải màu đỏ. Theo sau trăng chị, trăng em là sáu hoặc tám cô gái mặc áo chàm, trên đầu cô nào cũng buộc dẻ vải màu đỏ, hoặc màu vàng. Các cô này gọi là các mụ nàng đi phục vụ cho hai nàng trăng. Trong lễ hội còn có ông Tào làm lễ cúng các thần để cho lễ hội diễn ra và kết thúc an toàn.
Khi đã chuẩn bị xong mọi thứ, dân bản dựng một cái lều ở nơi khô ráo trong bản, gọi là lều trăng, tiếng địa phương gọi là "Thiêng hai". Lều được dựng sơ sài lợp rơm, trong lều kê mấy tấm phản dùng làm chỗ ngồi cho mẹ trăng và các nàng tiên khi làm lễ. Trước lều các cô gái vào rừng hái các hoa rừng như: Bioóc Mạ, hoa cây Khảo Quang, hoa Guột, hoa Chuối... về buộc lại từng bó vắt lên sào treo trước lều trăng. Trước khi hành lễ những người đóng vai Mẹ Trăng (Mụ cốc) và các nàng đứng trước bàn thờ để ông Tào làm lễ hóa thân. Theo trình tự, mỗi người hít thở ba lần khói hương để tống khứ linh hồn của người ra để linh hồn Mẹ Trăng và các nàng tiên nhập vào. Sau lễ nhập hồn việc hành lễ đón trăng bắt dầu. Sau ngày lễ đón trăng, Mẹ Trăng và các nàng đã làm lễ nhập hồn rồi về nhà không được làm những công việc uế tạp như gánh phân, vào chuồng gia súc...
Việc hành lễ hội: Sau lễ đón trăng xuống, các đêm tiếp theo là làm lễ cúng các Mẹ Trăng. Lễ cũng làm trong mười hai đêm. Mỗi đêm cúng mời một Mẹ Trăng xuống giúp cho trần gian làm ăn. Lễ cúng được miêu tả là cuộc hành trình các nàng tiên lên trời đến các cửa của các Mẹ Trăng như cửa mẹ Lạn Ba, mẹ Khắc Cơ, mẹ Bích Lam, mẹ Bích Vân, mẹ Lưỡng Tàm, mẹ Mạ Mỳ... Theo dân gian thì mỗi mẹ phụ trách một công việc; như mẹ Khắc Cơ bảo quản giống lúa, mẹ Bích Lan thì coi giống bông, mẹ Lưỡng Tàm thì quản giống Tằm, mẹ Mạ Mỳ thì trông coi các loại sâu bọ, cầu mẹ nhốt các loại sâu bọ lại không cho nó phá hoa màu...
Sau khi đã cầu hết các cửa, xin các mẹ được đầy đủ các giống cây, con, các điều kiện mưa gió thuận cho việc trồng trọt, làm ăn ở trần gian thì dân bản lại tổ chức đưa tiễn các nàng trăng về trời. Lễ này được tổ chức chu đáo và là ngày hội chính thức trong năm của bản, lễ hội này thu hút nhiều người ở địa phương khác đến chơi.
Tổ chức lễ tiễn các nàng trăng về trời, dân bản lại dựng một lều trăng thứ hai ở ngoài cổng. Lễ này được tổ chức trong một ngày. Trước khi ra hành lễ đưa tiễn các nàng trăng về trời ở ngoài đồng, Mẹ Trăng và các nàng trăng phải làm lễ chia tay trong lều đón trăng ở trong bản, họ hát các bài hát chia tay và vừa đi vừa dùng tay du mạnh những cột lều để cho lều đổ, mục du lều đổ này gọi là mục "Trụ trại". Sau lễ "Trụ trại", Mẹ Trăng và các nàng trăng ra cầu thần trông coi đầu bản và cuối bản mở cửa cho Mẹ Trăng và các nàng trăng về trời.
"Lều trăng" ở giữa đồng cũng dựng sơ sài như lều trăng ở trong bản, phía trước lều có đặt các mâm cỗ, trong đó có ba mâm to, một mâm có thủ lợn, xôi, rượu, hai mâm có con gà, xôi, các mâm khác chỉ có xôi ngũ sắc. Bên cạnh các mâm có đặt những chiếc thuyền đẽo bằng gỗ, trong đó có một chiếc to, trang trí đẹp hơn. Các thuyền này tượng trưng là những con thuyền chở của cải, hoa trái của dưới dương gian đưa lên tiến cho các Mẹ Trăng lên trời. Trước cửa "lều trăng" là những hàng cọc dựng lên thành khung, mỗi khung cách nhau chừng hai mét, trên những khung đó được trải những tấm vải lợp qua, tạo thành một đường vòng quanh sân. Những khung lợp vải này gọi là "trại mùng mành". Khi hành lễ đoàn các mẹ và các nàng trăng đi qua dưới những tấm vải lợp này. Trong "lều trăng" có trên những sào hoa rừng ở trước lều, những sào hoa này được các nàng phụ đi theo hai nàng trăng khiêng từ lều đón trăng trong bản ra. Trước lều đặt một mâm hương có ba bát gạo một bát có quả trứng gà, một bát có cắm ba con én gấp bằng giấy, ba chiếc thía dùng đựng rượu và một số các loại giống hoa màu. Trong lễ tiễn trăng này, sau khi làm xong lễ đưa tiễn, múa, đưa của cải lên thuyền cho các mẹ và các nàng trăng về trời thì các nàng phụ khiêng hai sào hoa và một người già cầm chiếc thuyền to nhất đi xuống trước bản thả. Sau khi thả thuyền và đặt hoa ở bên suối, thầy Tào làm phép tách vía cho mẹ và các nàng trăng, cùng với thầy Tào, thân nhân, bạn bè của hai cô đóng vai trăng chị và trăng em, gọi hồn vía người ở trần gian nhập lại vào người để trở về người trần. Hai cô phải rũ bỏ khăn vấn trên đầu và ra khỏi chỗ làm lễ tách nhập hồn.
Sau mấy chục năm lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Cao Bằng không có điều kiện tổ chức, đến năm 1996 Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cao Bằng đã đồng ý cho bà con ở xã Tiên Thành tổ chức lại lễ hội này. Lễ Hội Nàng Hai ở Tiên Thành tuy mới được khôi phục lại nhưng đã có sức cuốn hút nhiều người. Cái độc đáo nhất là lễ hội vừa thể hiện tín ngưỡng dân tộc, vừa phản ánh nguyện vọng của dân tộc Tày nói riêng và các dân tộc miền núi nói chung trong sự sinh tồn, trong bối cảnh nông thôn miền núi. Việc khôi phục lại lễ hội Nàng hai là gìn giữ cho dân tộc Tày một lễ hội cổ truyền mang tính văn hóa, đồng thời gìn giữ được làn điệu dân ca "lượn hai" mà lâu nay trong các làn điệu dân ca dân tộc Tày, người sưu tầm gần như đã quên lãng.
3. Lễ hội đền Kỳ Sâm
Đền Kỳ Sầm thờ Khâu Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao ở xã Tượng Cần, huyện Thạch Lâm nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An, cách trung tâm thị xã Cao Bằng 5 km. Đền được xây dựng để thờ danh nhân lịch sử Nùng Trí Cao, người dân tộc Tày, một nhân vật có liên quan đến sự nghiệp giữ nước ở thời Lý (vua Lý Thái Tông thế kỷ XI). Nùng Trí Cao là một thủ lĩnh địa phương cầm đầu cuộc nổi dậy ở vùng biên cương, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế. Ông đã có một thời oanh liệt, đánh tan giặc Tốnt xâm lược, tiến quân sang chiếm được 8 châu đất Quảng Đông, Quảng Châu, lưu danh trong lịch sử, là niềm tự hào của người dân Cao Bằng. Ông được triều Lý sắc phong “Kỳ Sầm đại vương”, triều Nguyễn sắc phong “Kỳ Sầm biên tái, bảo quốc an dân, phúc thần”.
Hàng năm lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng giêng Âm lịch, thu hút mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh đến trảy hội, vui xuân, với nhiều trò chơi như: tung còn, đấu vật, đấu võ, đá bóng, múa sư tử, múa rồng, múa lân… Ở nhiều địa phương khác trong tỉnh, nhân dân cũng lập đền thờ ông. Tượng người anh hùng dân tộc Nùng Trí Cao, tay cầm gươm tuốt trần ngồi trên chiến mã như sẵn sàng chống lại sự nhòm ngó của người phương Bắc được người dân vùng biên cương hương khói quanh năm để tỏ lòng ngưỡng mộ.
4. Lễ hội đền Vua Lê
Đền Vua Lê nằm ở phía Tây Bắc, cách trung tâm thị xã Cao Bằng 11 km, thuộc làng Đền, xã Hoà Tung, huyện Hoà An. Đền được xây dựng trên một gò đất cao phía Bắc thành Nà Lữ do Nùng Tông Phúc dựng lên vào thời nhà Lý (thế kỷ XI), được gọi là gò Long (tức gò Rồng). Trong thành Nà Lữ có bốn gò đất nổi lên được các triều đại phong kiến đặt tên là Long, Ly, Quy, Phượng. Giữa thành có ao sen và ruộng bàn cờ. Đền thờ vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hoàng đế), dưới triều đại phong kiến, vừa là cung điện, vừa là trung tâm hoạt động kinh tế - văn hoá, quân sự của các vua quan.
Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền vua Lê cũng là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt động của Đảng ta trong thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây, đồng chí Hoàng Đình Giong đã đứng ra thành lập “Đoàn thanh niên phản đế” (năm 1936). Hiện nay, đền vua Lê được xem là một di tích có giá trị và là nơi diễn ra lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân nơi đây. Lễ hội được tổ chức vào ngày 6 tháng giêng âm lịch hàng năm.
5. Lễ hội chùa Đà Quận
Chùa ở làng Đà Quận, xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, xưa là thôn Đà Quận (mang tên Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn – danh tướng nhà Mạc, xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm, đối diện với chùa Viên Minh (chùa sáng lập từ thời nhà Mạc). Trong chùa có hai quả chuông cao bốn thước, năm tấc, chu vi tám thước chín tấc, ước nặng nghìn cân. Mỗi kỳ tế lễ xuân thu thì gõ chuông, chuông vang như sấm, chấn động trăm dặm. Trên chuông thần có đúc bài minh bằng chữ Hán ca ngợi vẻ đẹp của Châu Thạch Lâm lúc bấy giờ và sự phục hồi của chùa Việt Minh sau khi nhà Lê khôi phục lại đất Cao Bằng. Hàng năm cứ đến mùng 9 tháng Giêng, nhân dân Cao Bằng đi trẩy hội chùa này.
6. Lễ hội pháo hoa
Trangia Event- Du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội truyền thống độc đáo với màn tranh pháo hoa đầu xuân của các xã tại thị trấn Quảng Uyên, Cao Bằng để cầu mong cho một năm mới may mắn, phát tài, phát lộc. Hàng năm, cứ vào ngày 2/2 âm lịch, nhân dân và du khách thập phương lại nô nức về Quảng Uyên trảy hội.
Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội lớn nhất trong năm của nhân dân huyện Quảng Uyên, gắn với các yếu tố về lịch sử, tâm linh của miếu Bách Linh. Miếu được xây từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó, đến thời nhà Nguyễn được xây dựng lại hoàn toàn theo kiến trúc thời Nguyễn. Trước cổng có tam quan, sân tiền đường, hậu đường và hậu cung, hoành phi, câu đối. Trên cổng khắc 3 chữ “Bách Linh miếu”, có đắp nổi con rồng uốn khúc, xây bằng gạch vồ (gạch thời Mạc), có bức trạm rồng ngậm ngọc, bên cạnh có chim phượng cùng long ly tụ hội.
Phần đặc sắc nhất trong phần lễ là màn “khai quan” cho rồng mở mắt. Rồng được khai quan từ một mỏ nước (người dân địa phương gọi là bó Cốc Chủ - mỏ nước ở dưới gốc cây cổ thụ). Lễ do một cụ cao tuổi, có uy tín làm chủ lễ và một đội rồng gồm 15 người (3 người đánh trống, một người cầm quả cầu và 11 người múa rồng) làm lễ tại mỏ nước. Khi ra mỏ nước, rồng không được múa, không được đánh trống mà được bịt mắt bằng giấy bản, đến mỏ nước, rồng nằm phục ở đó. Người chủ lễ thắp hương vái thiên địa, cầu xin thần linh phù hộ cho người dân địa phương một năm làm ăn mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no, hạnh phúc và xin được mở mắt cho rồng. Cúng xong, chủ lễ cắt tiết con gà trống, lấy máu xoa vào hai mắt rồng rồi bỏ giấy ở mắt rồng ra, lúc này rồng đã được mở mắt, sau ba hồi trống nổi lên để đánh thức, rồng bắt đầu cử động từ đầu đến thân rồi đuôi. Sau đó, người ta đánh trống thúc giục và rồng từ từ bay lên, rồng bay quanh mỏ nước ba lần rồi đi vào miếu Bách Linh; trong miếu đã được đặt lễ và thắp hương, rồng vào miếu vái ba lần, sau đó đi trong miếu một vòng rồi ra ngoài.
Lễ vật dâng lên tế lễ gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm phẩm đỏ, 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra long trọng với 4 đoàn rước kiệu, mỗi kiệu có 4 người khiêng, mặc lễ phục. Đầu tiên là kiệu rước ảnh Bác Hồ, thứ hai là kiệu rước thần, thứ ba là kiệu pháo hoa, cuối cùng là kiệu rước một con lợn quay, là phần thưởng cho đội thắng cuộc trong trò chơi cướp đầu pháo. Theo sau đoàn rước kiệu là đoàn rước rồng, sau khi làm thủ tục thắp hương tại miếu, đoàn rước rồng xuất phát đến Đền thờ Nùng Trí Cao, Đền thờ Trần Hưng Đạo, sau đó đi khắp phố tới từng nhà. Đi tới đâu rồng cũng được người dân tiếp đón rất nồng nhiệt, trang trọng.
Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ, như: múa rồng, múa lân, tung còn, hát lượn, tranh đầu pháo... Trò chơi tiêu biểu của lễ hội là trò cướp đầu pháo, đầu pháo làm từ chiếc vòng sắt trang điểm tua ngũ sắc sặc sỡ, pháo được đặt trên một đài cao, sau khi đốt pháo, chờ cho đầu pháo rơi xuống, các đội bắt đầu tranh cướp, đội nào cầm được đầu pháo mang đến cho Ban Tổ chức là đội thắng cuộc. Gần đây, khi có lệnh cấm đốt pháo, Ban Tổ chức đã tiến hành trò chơi bằng cách đứng trên đài cao rồi tung vòng sắt (đầu pháo) ra cho các đội tranh cướp như thường lệ. Theo quan niệm của người dân địa phương thì ai bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát tài, phát lộc và đem lại vinh dự lớn cho xã mình. Xã nào thắng cuộc sẽ được phần thưởng là một con lợn quay trên kiệu trong lễ rước thần, cỗ kiệu cũng được để lại cho xã đó hương khói cầu lộc một năm đến lễ hội pháo hoa năm sau, địa phương này lại chuẩn bị một con lợn quay để lên kiệu, đoàn rước rồng sẽ đến lấy làm lễ rước thần, đồng thời làm phần thưởng cho đội thắng cuộc thi năm đó.
Theo thời gian, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên đã tồn tại trong tâm thức nhiều thế hệ người dân Quảng Uyên và trở thành nét đẹp tinh thần không thể thiếu mỗi dịp xuân về.
 Phát triển du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Các lễ hội dân gian truyền thống ở Cao Bằng tổ chức chủ yếu ở quy mô làng xã và mang đậm nét văn hoá của các dân tộc. Các lễ hội này được tổ chức theo nghi lễ truyền thống, các trò chơi dân gian được khôi phục, kết hợp với các hoạt động văn hoá thể thao như bóng đá, bóng chuyền, văn nghệ quần chúng,… đã tạo thêm nét tưng bừng cho ngày hội. Mỗi địa phương tuy cùng một chủ đề lễ hội, nhưng do điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá khác nhau nên cách thức tổ chức các lễ hội cũng khác nhau. Điều đó càng làm tăng thêm sự đa dạng, phong phú cho các loại hình lễ hội ở Cao Bằng. Đồng thời lễ hội cũng là nơi bảo tồn, giữ gìn những giá trị của văn hoá, nghệ thuật truyền thống. Những câu hát Then, điệu hát Sli, Lượn, Phongslư, Dá Hai, Hà Lều… với những giai điệu ngọt ngào, da diết cùng những trò chơi dân gian thực sự hấp dẫn là những tiềm năng du lịch văn hoá rất lớn của vùng đất Cao Bằng.
Nhằm khai thác những tiềm năng du lịch trở thành những sản phẩm du lịch, điểm hẹn du lịch hấp dẫn, ngành du lịch Cao Bằng cần có những giải pháp cụ thể và một kế hoạch đầu tư dài hạn. Trước hết, cần nhận thức rõ bản sắc địa phương của tài nguyên du lịch thiên nhiên và văn hoá như là mặt hấp dẫn của điểm đến du lịch. Trên cơ sở đó tiến hành rà soát các tài nguyên du lịch văn hoá nổi trội (trong đó có các lễ hội) mang đặc thù riêng của địa phương Cao Bằng để quy hoạch một chương trình phát triển du lịch. Đặc biệt, phát triển các loại hình du lịch theo hướng khai thác các thế mạnh của địa phương như: du lịch gắn với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng, sông suối, ghềnh thác ở Cao Bằng; xây dựng tuyến du lịch gắn với văn hoá, lịch sử. Khôi phục và khai thác, giới thiệu các di tích văn hoá, lịch sử đã bị thời gian và chiến tranh tàn phá, chẳng hạn như đền Tam Trung (nay ở đường Lê Lợi - thị xã Cao Bằng) thờ ba vị đầu tỉnh. Hoặc như đền Kim Pha, tức đền Bà Hoàng, thờ mẹ Nùng Trí Cao, người đã được nhà sử học Mỹ James A.Anderson đánh giá ngang tầm Bà Triệu vì đã cùng con trai dám chủ trương đem quân đánh đuổi Đại Tống, đòi đất chia trả cho dân nước Nam…
Trangia Event- Du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Để bảo vệ những di tích văn hóa lịch sử, cần có sự đánh giá thống nhất, kế hoạch phục chế, xây dựng những di tích này, đồng thời tích cực tuyên truyền, quảng bá các sản phẩm du lịch văn hoá, lịch sử trên các phương tiện thông tin đại chúng, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tăng cường nguồn đầu tư về cơ sở vật chất, khai thác các giá trị văn hoá dân tộc độc đáo, đặc sắc phục vụ cho phát triển du lịch.
Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ cảnh quan môi trường của các điểm du lịch, nâng cao nhận thức của cộng đồng cư dân bản địa và khách du lịch trong việc bảo tồn, duy trì, tôn tạo các di tích văn hoá, lịch sử, giữ gìn thuần phong mỹ tục, giữ gìn những giá trị văn hoá nguyên bản của địa phương, giảm thiểu những tác động tiêu cực từ hoạt động du lịch đến môi trường văn hoá hoặc thương mại hoá văn hoá bản địa.
Đối với công tác quản lý lễ hội truyền thống các cơ quan chức năng cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể ở địa phương để triển khai tổ chức lễ hội trật tự, an toàn, đảm bảo không khí linh thiêng, chống mê tín dị đoan cũng như việc khôi phục nguyên bản những hoạt động văn hoá dân gian của lễ hội.
Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư, nâng cấp, tôn tạo và bảo vệ di tích, danh thắng, tổ chức các hoạt động văn hoá truyền thống tạo thành sản phẩm du lịch để thu hút và lưu giữ khách, đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, quan tâm phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, khuyến khích nhân dân để họ tích cực tham gia bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc trong đó có những giá trị văn hoá của các lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho các sản phẩm du lịch.
Lễ hội truyền thống là loại hình di sản độc đáo trong kho tàng văn hóa dân gian Cao Bằng. Thông qua nội dung, hình thức hoạt động, lễ hội đã trở thành môi trường ưu việt giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lịch sử văn hóa, về lòng yêu nước, thương nòi, đạo lý làm người, biết ơn các bậc tiền bối,… Cùng với định hướng tốt, du lịch lễ hội nói riêng và du lịch Cao Bằng nói chung sẽ ngày càng khởi sắc./.
                                                                                                               Nguồn: Sưu tầm 
Share this article :

0 nhận xét:

Đăng nhận xét