(Cinet) – Lễ hội truyền thống ở Cao Bằng diễn ra hàng năm, chủ yếu là
vào mùa xuân, mùa của sinh sôi nảy nở. Khi ấy là lúc khí hậu, cảnh sắc
thiên nhiên đẹp nhất. Con người thong thả, an nhàn qua một năm vất vả,
bắt đầu chuẩn bị cho những mùa vụ tiếp theo. Đây cũng là lúc thuận tiện
nhất cho các hoạt động, sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Là tỉnh có
nhiều dân tộc anh em sinh sống nên hệ thống lễ hội ở Cao Bằng cũng đa
dạng, phong phú: lễ hội lịch sử, lễ hội đền, lễ hội chùa. Các lễ hội đều
gắn với tín ngưỡng linh thiêng, huyền bí, thu hút sự quan tâm của nhiều
người. Cùng với phong cảnh núi non hùng vĩ, những kiệt tác thiên nhiên
tuyệt đẹp như động Ngườm Ngao, thác Bản Giốc, hồ Thang Hen,…
Vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt mỹ, nhiều danh lam thắng cảnh,
những di tích lịch sử nổi tiếng, lễ hội truyền thống độc đáo,… càng
khiến cho Cao Bằng trở thành điểm hẹn du lịch đầy hấp dẫn.
Tiềm năng du lịch lễ hội ở Cao Bằng | |
Những lễ hội đặc sắc của Cao Bằng | |
Phát triển du lịch lễ hội ở Cao Bằng |
Tiềm năng du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Cao Bằng là vùng đất cổ có bề dày lịch sử, văn hóa, có thế
mạnh về tiềm năng du lịch với hệ thống di tích lịch sử cách mạng phong
phú như: Cụm di tích lịch sử Pác Bó - cội nguồn cách mạng Việt Nam gắn
liền với những năm tháng hoạt động cách mạng của lãnh tụ Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại; Khu rừng Trần Hưng Đạo- nơi thành lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh
hùng; Khu di tích lịch sử Chiến thắng Đông Khê... và những di tích lịch
sử văn hóa như: Đền Kỳ Sầm thờ Nùng Chí Cao; Đền Vua Lê thờ vua Lê Thái
Tổ..
Cao
Bằng được tạo hóa ban tặng cho những tuyệt tác thiên thiên làm say đắm
lòng người như: động Ngườm Ngao, thác Bản Giốc, hồ Thang Hen, hồ Khuổi
lái, khu du lịch sinh thái Phja Oắc- Phja Đén có độ cao 1.931m so với
mặt biển,... Cao Bằng còn có sự phong phú, đa dạng về các tập tục văn
hóa truyền thống. Con người Cao Bằng thật thà, mến khách, du khách đến
Cao Bằng sẽ được tham gia các lễ hội văn hóa truyền thống đặc sắc của
các dân tộc diễn ra hàng năm như: Hội tung còn, lễ hội mời mẹ trăng, lễ
hội xuống đồng, lễ hội tranh đầu pháo,... thưởng thức các làn điệu dân
ca mượt mà, đằm thắm như: Nàng ới, Sli, lượn, Pựt lằn, Xà dá... chiêm
ngưỡng vẻ đẹp độc đáo của các làng nghề truyền thống như làng nghề dệt,
nhuộm chàm, làng rèn Phúc Sen, nghề dệt thổ cẩm... Tất cả thiên nhiên,
con người và văn hóa các dân tộc Cao Bằng đã hòa quyện vào nhau tạo nên
một Cao Bằng hùng vĩ nhưng thơ mộng, mượt mà làm ngất ngây lòng người.
Từ xa xưa, người Cao Bằng đã thiết tha mời gọi du khách đến với Cao
Bằng.
Trong những năm gần đây, các địa điểm du lịch ở Cao Bằng đã
và đang được đầu tư xây dựng, từng bước hoàn thiện và đưa vào khai thác
phục vụ khách như: Khu di tích lịch sử Pác Bó; Khu du lịch động Ngườm
Ngao; khu du lịch sinh thái hồ Thang Hen; Làng Tày cổ Khuổi ky; khu du
lịch sinh thái Phja Oắc, Phja Đén. Đồng thời quan tâm đầu tư tu bổ, xây
dựng các khu di tích lịch sử cách mạng, di tích lịch sử văn hóa như: Khu
di tích rừng Trần Hưng Đạo; Khu di tích Hoàng Đình Giong; Khu di tích
chiến dịch Đông Khê; di tích đền Kỳ Sầm; Di tích đền Vua Lê; Di tích
chùa Viên Minh; nâng cấp hệ thống giao thông đến các khu, điểm du lịch
tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến tham quan.
Bên cạnh đó, các loại hình văn hóa phi vật thể được bảo lưu
và phát huy như: hát Then, Sli, lượn, đàn tính... Các làng nghề truyền
thống được khôi phục và phát triển. Đi đôi với đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; đào tạo nguồn
nhân lực du lịch, tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch để thu hút
khách. Mở rộng hợp tác quốc tế, Du lịch Cao Bằng đã ký kết hợp tác du
lịch song phương với các Công ty Du lịch thuộc tỉnh Quảng Tây- Trung
Quốc khai thác nguồn khách du lịch hai bên có hiệu quả.
Tất cả những cố gắng đó đã tạo cho du lịch Cao Bằng có những
bước tiến đáng khích lệ, lượng khách du lịch tăng bình quân từ
15-17%/năm; doanh thu tăng 17-20%/năm; tạo nhiều công ăn việc làm cho
lao động địa phương, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, tạo
khả năng tiêu thụ sản phẩm tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các
thành kinh tế khác cùng phát triển; nâng cao ý thức trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước và cộng đồng dân cư trong giữ gìn, phát triển di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể, việc bảo vệ tài nguyên môi trường du
lịch.
Mặc
dù đạt được những kết quả trên nhưng các chỉ tiêu chủ yếu về lượng
khách và doanh thu du lịch còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng du
lịch của địa phương; cơ chế chính sách còn có mặt hạn chế, bất cập,
thiếu đồng bộ; Quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xúc tiến quảng
bá, đào tạo nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm du lịch... còn nhiều hạn
chế chưa đáp ứng với nhu cầu phát triển thực tế.
Lễ
hội ở Cao Bằng là một trong những loại hình di sản độc đáo và mang đậm
bản sắc văn hoá dân tộc. Ở đó thể hiện rất rõ đời sống văn hoá tâm linh,
những quan niệm nhân sinh và các sinh hoạt văn hoá dân gian khác. Chính
vì thế, lễ hội truyền thống của Cao Bằng là một trong những loại hình
văn hoá đặc biệt, có sức thu hút lớn đối với khách du lịch trong và
ngoài nước. Chính vì thế, ngành du lịch Cao Bằng cần đa dạng hóa và nâng
cao chất lượng sản phẩm du lịch lễ hội nhằm đáp ứng được nhu cầu của du
khách, đồng thời tăng cường được sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch
Cao Bằng trên thị trường. Dựa trên các đặc trưng văn hóa, các thế mạnh
về sinh thái cảnh quan và các yêu cầu đòi hỏi của thị trường mà tạo ra
các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù của vùng và của Cao Bằng. Xây
dựng các tour du lịch sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh gắn với các di
tích lịch sử, lễ hội truyền thống. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng
sản phẩm lưu niệm của du lịch Cao Bằng.
Những lễ hội truyền thống đặc sắc của Cao Bằng
Do có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống nên ở Cao Bằng có
khá nhiều lễ hội mang những nét đặc trưng riêng của các dân tộc khác
nhau. Tuy vậy, nhìn chung các lễ hội đều mang tính nhân văn sâu sắc,
hướng thiện, cầu phúc, cầu lộc, cầu mùa, trừ tà và mong muốn cho cuộc
sống ngày càng tốt đẹp. Bên cạnh đó, còn có các lễ hội tôn vinh những
anh hùng chống giặc ngoại xâm, các lễ hội thực hiện các nghi lễ, tập tục
của dân tộc…
Ở
Cao Bằng, hàng năm có rất nhiều lễ hội nhưng có thể kể đến những lễ hội
lớn, có tầm ảnh hưởng rộng và thu hút đông đảo người dân trong vùng
cũng như khách thập phương như: Lễ hội Lồng tồng, lễ hội Nàng Hai, lễ
hội đền Kỳ Sầm, đền Vua Lê, lễ hội chủa Đà Quận, chùa Giang Động, lễ hội
pháo hoa.
1. Lễ hội Lồng
Tồng
Là
lễ hội quan trọng nhất trong năm của đồng bào người Tày, Nùng, được tổ
chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Sau những ngày vui
xuân chấm dứt, các bản làng người Tày lại nhộn nhịp chuẩn bị cho lễ hội
Lồng
Tồng. Gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, lễ hội Lồng tồng được
tổ chức nhằm gửi gắm những mong ước của con người, cầu cho mưa thuận gió
hoà, mùa màng bội thu, đời sống luôn no ấm.
Lồng
Tồng theo tiếng Tày – Nùng hay Lồng
Tộng theo tiếng Dao có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang
đậm dấu ấn của nền sản xuất nông nghiệp từ phần nghi lễ khi hội, các
nghi thức, sản vật dân cúng đến các trò chơi trong lễ hội.
Sau
khi thức dân hương kính cáo các vị thần, chủ lễ vạch một đường cày đầu
năm, bắt đầu cho cuộc sống nông tang, cày bừa, cấy hái. Dù được tổ chức
với quy mô lớn hay nhỏ, phần lễ vẫn giữ nguyên các nghi thức từ xa xưa.
Mở đầu bằng lễ cầu mùa: thày cúng đọc các bài khấn và thực hiện nghi
thức tạ thiên địa, cầu thần nông, thần núi, thần suối và Thành hoàng,
những vị thần bảo hộ cho mùa màng và sức khoẻ, sự bình yên của dân làng.
Trong
lễ hội, mỗi sản vật được dâng cúng đều mang một ý nghĩa thể hiện sự
giao hoà của trời đất, thành quả của lao động. Lễ vật chung của dân bản
gồm một bát nước, một đĩa xôi đỏ, một đĩa xôi vàng, một con gà luộc, một
xâu cá nướng, một bát tiết luộc, một con dao nhọn, một bó vải mới dệt,
hai con cá bằng giấy màu vàng, hai con chim cú bằng giấy màu đỏ, hai
chùm hoa bằng bỏng gạo cắm trên bẹ chuối, hai chùm quả của cây bồ đao.
Xôi đỏ tượng trưng cho mặt trời, xôi vàng tượng trưng cho mặt trăng,
chùm quà của cây bồ đao tượng trưng cho hạt gạo…
Đặc
biệt, mâm cỗ cúng của các gia đình còn có thêm đôi quả còn với tua rua
nhiều màu sắc sặc sỡ rất đẹp. Tất cả đều là những biểu hiện của sự sinh
sôi nảy nở và gửi gắm những ước mơ khát khao về cuộc sống ấm no an lành.
Một hồi chiêng vang lên, thày mo thắp hương, đọc lời khấn và bắt đầu
những nghi lễ. Thày mo tay cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô (do các
thiếu nữ đẹp nhất, còn trinh trắng của các bản mường lấy về từ đầu
nguồn) ngửa mặt lên trời cầu khấn rồi vảy nước ra khắp bốn phương. Đó
cũng là thứ nước tượng trưng cho nước thiêng từ Mường trời tưới xuống
nhân gian cho cây cối tươi tốt, cho mùa màng sinh sôi, cho cuộc sống ấm
no.
Các hoạt động trong lễ hội là những sinh hoạt văn hoá dân
gian hết sức cuốn hút. Đó là hội tung còn, thi hát Sli, hát Lượm, cùng
nhiều trò chơi như đi cà kheo, đánh quay, đánh yến, đá cầu, đẩy gậy,
đánh đu, chọi gà… Trò ném còn luôn là tâm điểm của ngày hội này. Để
chuẩn bị cho hội tung còn ở giữa đám đông lớn, người ta dựng một cây mai
cao làm cột, trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính khoảng 50 – 60
cm dán giấy mỏng màu hồng, hai mặt tượng trưng cho Âm – Dương. Tung còn
đòi hỏi cả sức khoẻ và sự khéo léo. Khi quả còn được tung lên, ném
trúng vòng tròn và xuyên thủng làm rơi giấy là âm – Dương giao hoà, cuộc
sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. Người con gái nào bắt được quả
còn thì năm đó sẽ gặp may mắn trong đường nhân duyên. Việc tung còn
trúng vòng tròn, xuyên thủng và rơi giấy âm dương có ý nghĩa rất quan
trọng, coi như lời cầu nguyện linh ứng, coi như lễ hội đã thành công. Vì
thế, nếu ném còn mà không thủng, không rơi thì phải dùng tên bắn để
giấy Âm – Dương rơi xuống.
Những
nghi lễ độc đáo, những trò chơi hấp dẫn đầy ý nghĩa trong lễ hội Lồng
tồng luôn là những yếu tố thu hút khách du lịch gần xa. Vì thế vào dịp
năm mới khắp vùng núi phía Bắc nói chung và Cao Bằng nói riêng luôn tấp
nập du khách gần xa. Lễ hội Lồng tồng luôn để lại dấu ấn sâu đậm trong
lòng những ai đã từng tham dự, khiến họ khi trở về luôn mang theo nỗi
nhớ khó quên hoặc sự tiếc nuối để hẹn lại mùa xuân năm sau.
2. Lễ hội Nàng Hai
Hội
được bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng ba.Theo
tín ngưỡng dân gian dân tộc Tày thì trên cung trăng có Mẹ Trăng và mười
hai nàng tiên - con gái của mẹ. Mẹ cùng các nàng hằng năm chăm lo bảo vệ
mùa màng cho dân. Hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng các
mẹ các nàng ở dưới trần gian hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các
nàng tiên xuống thăm trần gian và giúp trần gian trong công việc làm ăn
để sinh sống.
Thời
gian tổ chức hội Nàng Hai phụ thuộc vào thời gian đã quy định ở từng
xóm từ thời xa xưa truyền lại; như ở Bản Guống đón trăng vào ngày mùng 6
tháng hai và đưa tiễn trăng vào ngày 24 tháng 3. Bản Nưa Khau đón trăng
vào ngày 11 tháng 2 và đưa tiễn trăng vào ngày 22 tháng 3. Bản Ngườm
Cuông đón trăng vào ngày 15 tháng 2 và đưa tiễn trăng vào ngày 21 tháng
3.
Để
tổ chức hội Nàng Hai, các cụ già trong bản chọn một bà mẹ có cuộc sống
gia đình hoàn thiện, hát giỏi để làm Mẹ Trăng, tiếng địa phương gọi là
"Mụ cốc" và chọn lấy 12 đến 18 cô gái trẻ đóng vai nàng tiên. Trong các
cô này chọn ra hai cô gái chưa chồng để đóng hai chị em trăng. Cô chị
gọi là "Nàng Slở", cô em gọi là "Nàng Gường". Chọn lấy hai thiếu niên
nam mang lễ đi trước mở đường cho cuộc hành trình các nàng và mẹ trăng
đi lên trời.
Về
trang phục: Mẹ Trăng (Mụ cốc) mặc quần áo chàm, trên đầu buộc một dẻ
vải đỏ vắt chéo qua trên khăn. Khi hành lễ, đến đoạn múa lên đường, mẹ
trăng tay cầm ngọn mía, trên ngọn mía có treo một túi đựng trầu nhỏ, một
chiếc mù soa, và một bát nước có đặt một lá bưởi. Bát nước và ngọn mía
có ý nghĩa tượng trưng cho việc tẩy uế.
Hai
thiếu niên nam mặc quần áo chàm, trên đầu buộc hai dẻ vải đỏ, ngang
hông buộc thắt lưng bằng vải đỏ. Đến khi Mẹ Trăng và các nàng tiên làm
cuộc hành trình thì hai thiếu niên tay cầm mỗi người một cây trúc nhỏ
tỉa cành, chỉ để lại mấy cành ở ngọn, trên ngọn buộc một chiếc khăn tay.
Theo tiếng dân tộc hai cây trúc này gọi là cây "cụ tiến". Cây "cụ tiến"
với ý nghĩa là mở đường cho Mẹ Trăng và các nàng tiên lên trời cầu các
mẹ trăng xuống giúp trần gian trong các công việc làm ăn.
Hai
nàng trăng, trăng chị (nàng Slở) thì mặc áo vàng, trên đầu vấn khăn có
buộc một dẻ vải màu vàng chéo qua trên khăn, trăng em (nàng Gường) thì
mặc áo đỏ, trên đầu buộc dẻ vải màu đỏ. Theo sau trăng chị, trăng em là
sáu hoặc tám cô gái mặc áo chàm, trên đầu cô nào cũng buộc dẻ vải màu
đỏ, hoặc màu vàng. Các cô này gọi là các mụ nàng đi phục vụ cho hai nàng
trăng. Trong lễ hội còn có ông Tào làm lễ cúng các thần để cho lễ hội
diễn ra và kết thúc an toàn.
Khi
đã chuẩn bị xong mọi thứ, dân bản dựng một cái lều ở nơi khô ráo trong
bản, gọi là lều trăng, tiếng địa phương gọi là "Thiêng hai". Lều được
dựng sơ sài lợp rơm, trong lều kê mấy tấm phản dùng làm chỗ ngồi cho mẹ
trăng và các nàng tiên khi làm lễ. Trước lều các cô gái vào rừng hái các
hoa rừng như: Bioóc Mạ, hoa cây Khảo Quang, hoa Guột, hoa Chuối... về
buộc lại từng bó vắt lên sào treo trước lều trăng. Trước khi hành lễ
những người đóng vai Mẹ Trăng (Mụ cốc) và các nàng đứng trước bàn thờ để
ông Tào làm lễ hóa thân. Theo trình tự, mỗi người hít thở ba lần khói
hương để tống khứ linh hồn của người ra để linh hồn Mẹ Trăng và các nàng
tiên nhập vào. Sau lễ nhập hồn việc hành lễ đón trăng bắt dầu. Sau ngày
lễ đón trăng, Mẹ Trăng và các nàng đã làm lễ nhập hồn rồi về nhà không
được làm những công việc uế tạp như gánh phân, vào chuồng gia súc...
Việc
hành lễ hội: Sau lễ đón trăng xuống, các đêm tiếp theo là làm lễ cúng
các Mẹ Trăng. Lễ cũng làm trong mười hai đêm. Mỗi đêm cúng mời một Mẹ
Trăng xuống giúp cho trần gian làm ăn. Lễ cúng được miêu tả là cuộc hành
trình các nàng tiên lên trời đến các cửa của các Mẹ Trăng như cửa mẹ
Lạn Ba, mẹ Khắc Cơ, mẹ Bích Lam, mẹ Bích Vân, mẹ Lưỡng Tàm, mẹ Mạ Mỳ...
Theo dân gian thì mỗi mẹ phụ trách một công việc; như mẹ Khắc Cơ bảo
quản giống lúa, mẹ Bích Lan thì coi giống bông, mẹ Lưỡng Tàm thì quản
giống Tằm, mẹ Mạ Mỳ thì trông coi các loại sâu bọ, cầu mẹ nhốt các loại
sâu bọ lại không cho nó phá hoa màu...
Sau
khi đã cầu hết các cửa, xin các mẹ được đầy đủ các giống cây, con, các
điều kiện mưa gió thuận cho việc trồng trọt, làm ăn ở trần gian thì dân
bản lại tổ chức đưa tiễn các nàng trăng về trời. Lễ này được tổ chức chu
đáo và là ngày hội chính thức trong năm của bản, lễ hội này thu hút
nhiều người ở địa phương khác đến chơi.
Tổ
chức lễ tiễn các nàng trăng về trời, dân bản lại dựng một lều trăng thứ
hai ở ngoài cổng. Lễ này được tổ chức trong một ngày. Trước khi ra hành
lễ đưa tiễn các nàng trăng về trời ở ngoài đồng, Mẹ Trăng và các nàng
trăng phải làm lễ chia tay trong lều đón trăng ở trong bản, họ hát các
bài hát chia tay và vừa đi vừa dùng tay du mạnh những cột lều để cho lều
đổ, mục du lều đổ này gọi là mục "Trụ trại". Sau lễ "Trụ trại", Mẹ
Trăng và các nàng trăng ra cầu thần trông coi đầu bản và cuối bản mở cửa
cho Mẹ Trăng và các nàng trăng về trời.
"Lều
trăng" ở giữa đồng cũng dựng sơ sài như lều trăng ở trong bản, phía
trước lều có đặt các mâm cỗ, trong đó có ba mâm to, một mâm có thủ lợn,
xôi, rượu, hai mâm có con gà, xôi, các mâm khác chỉ có xôi ngũ sắc. Bên
cạnh các mâm có đặt những chiếc thuyền đẽo bằng gỗ, trong đó có một
chiếc to, trang trí đẹp hơn. Các thuyền này tượng trưng là những con
thuyền chở của cải, hoa trái của dưới dương gian đưa lên tiến cho các Mẹ
Trăng lên trời. Trước cửa "lều trăng" là những hàng cọc dựng lên thành
khung, mỗi khung cách nhau chừng hai mét, trên những khung đó được trải
những tấm vải lợp qua, tạo thành một đường vòng quanh sân. Những khung
lợp vải này gọi là "trại mùng mành". Khi hành lễ đoàn các mẹ và các nàng
trăng đi qua dưới những tấm vải lợp này. Trong "lều trăng" có trên
những sào hoa rừng ở trước lều, những sào hoa này được các nàng phụ đi
theo hai nàng trăng khiêng từ lều đón trăng trong bản ra. Trước lều đặt
một mâm hương có ba bát gạo một bát có quả trứng gà, một bát có cắm ba
con én gấp bằng giấy, ba chiếc thía dùng đựng rượu và một số các loại
giống hoa màu. Trong lễ tiễn trăng này, sau khi làm xong lễ đưa tiễn,
múa, đưa của cải lên thuyền cho các mẹ và các nàng trăng về trời thì các
nàng phụ khiêng hai sào hoa và một người già cầm chiếc thuyền to nhất
đi xuống trước bản thả. Sau khi thả thuyền và đặt hoa ở bên suối, thầy
Tào làm phép tách vía cho mẹ và các nàng trăng, cùng với thầy Tào, thân
nhân, bạn bè của hai cô đóng vai trăng chị và trăng em, gọi hồn vía
người ở trần gian nhập lại vào người để trở về người trần. Hai cô phải
rũ bỏ khăn vấn trên đầu và ra khỏi chỗ làm lễ tách nhập hồn.
Sau
mấy chục năm lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Cao Bằng không có điều
kiện tổ chức, đến năm 1996 Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cao Bằng đã đồng ý
cho bà con ở xã Tiên Thành tổ chức lại lễ hội này. Lễ Hội Nàng Hai ở
Tiên Thành tuy mới được khôi phục lại nhưng đã có sức cuốn hút nhiều
người. Cái độc đáo nhất là lễ hội vừa thể hiện tín ngưỡng dân tộc, vừa
phản ánh nguyện vọng của dân tộc Tày nói riêng và các dân tộc miền núi
nói chung trong sự sinh tồn, trong bối cảnh nông thôn miền núi. Việc
khôi phục lại lễ hội Nàng hai là gìn giữ cho dân tộc Tày một lễ hội cổ
truyền mang tính văn hóa, đồng thời gìn giữ được làn điệu dân ca "lượn
hai" mà lâu nay trong các làn điệu dân ca dân tộc Tày, người sưu tầm gần
như đã quên lãng.
3. Lễ hội đền Kỳ Sâm
Đền
Kỳ Sầm thờ Khâu Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao ở xã Tượng Cần, huyện Thạch
Lâm nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An, cách trung tâm thị xã
Cao Bằng 5 km. Đền được xây dựng để thờ danh nhân lịch sử Nùng Trí Cao,
người dân tộc Tày, một nhân vật có liên quan đến sự nghiệp giữ nước ở
thời Lý (vua Lý Thái Tông thế kỷ XI). Nùng Trí Cao là một thủ lĩnh địa
phương cầm đầu cuộc nổi dậy ở vùng biên cương, tự xưng là Nhân Huệ hoàng
đế. Ông đã có một thời oanh liệt, đánh tan giặc Tốnt xâm lược, tiến
quân sang chiếm được 8 châu đất Quảng Đông, Quảng Châu, lưu danh trong
lịch sử, là niềm tự hào của người dân Cao Bằng. Ông được triều Lý sắc
phong “Kỳ Sầm đại vương”, triều Nguyễn sắc phong “Kỳ Sầm biên tái, bảo
quốc an dân, phúc thần”.
Hàng
năm lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng giêng Âm lịch, thu hút
mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh đến trảy hội, vui xuân, với nhiều trò
chơi như: tung còn, đấu vật, đấu võ, đá bóng, múa sư tử, múa rồng, múa
lân… Ở nhiều địa phương khác trong tỉnh, nhân dân cũng lập đền thờ ông.
Tượng người anh hùng dân tộc Nùng Trí Cao, tay cầm gươm tuốt trần ngồi
trên chiến mã như sẵn sàng chống lại sự nhòm ngó của người phương Bắc
được người dân vùng biên cương hương khói quanh năm để tỏ lòng ngưỡng
mộ.
4. Lễ hội đền Vua Lê
Đền
Vua Lê nằm ở phía Tây Bắc, cách trung tâm thị xã Cao Bằng 11 km, thuộc
làng Đền, xã Hoà Tung, huyện Hoà An. Đền được xây dựng trên một gò đất
cao phía Bắc thành Nà Lữ do Nùng Tông Phúc dựng lên vào thời nhà Lý (thế
kỷ XI), được gọi là gò Long (tức gò Rồng). Trong thành Nà Lữ có bốn gò
đất nổi lên được các triều đại phong kiến đặt tên là Long, Ly, Quy,
Phượng. Giữa thành có ao sen và ruộng bàn cờ. Đền thờ vua Lê Thái Tổ
(tức Lê Lợi Cao Hoàng đế), dưới triều đại phong kiến, vừa là cung điện,
vừa là trung tâm hoạt động kinh tế - văn hoá, quân sự của các vua quan.
Trước
cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền vua
Lê cũng là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt động của Đảng ta
trong thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây, đồng chí
Hoàng Đình Giong đã đứng ra thành lập “Đoàn thanh niên phản đế” (năm
1936). Hiện nay, đền vua Lê được xem là một di tích có giá trị và là nơi
diễn ra lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân nơi đây. Lễ
hội được tổ chức vào ngày 6 tháng giêng âm lịch hàng năm.
5. Lễ hội chùa Đà Quận
Chùa
ở làng Đà Quận, xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, xưa là thôn Đà Quận (mang
tên Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn – danh tướng nhà Mạc, xã Xuân Lĩnh, châu
Thạch Lâm, đối diện với chùa Viên Minh (chùa sáng lập từ thời nhà Mạc).
Trong chùa có hai quả chuông cao bốn thước, năm tấc, chu vi tám thước
chín tấc, ước nặng nghìn cân. Mỗi kỳ tế lễ xuân thu thì gõ chuông,
chuông vang như sấm, chấn động trăm dặm. Trên chuông thần có đúc bài
minh bằng chữ Hán ca ngợi vẻ đẹp của Châu Thạch Lâm lúc bấy giờ và sự
phục hồi của chùa Việt Minh sau khi nhà Lê khôi phục lại đất Cao Bằng.
Hàng năm cứ đến mùng 9 tháng Giêng, nhân dân Cao Bằng đi trẩy hội chùa
này.
6. Lễ hội pháo hoa
Lễ
hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội truyền thống độc đáo với màn tranh
pháo hoa đầu xuân của các xã tại thị trấn Quảng Uyên, Cao Bằng để cầu
mong cho một năm mới may mắn, phát tài, phát lộc. Hàng năm, cứ vào ngày
2/2 âm lịch, nhân dân và du khách thập phương lại nô nức về Quảng Uyên
trảy hội.
Lễ
hội pháo hoa Quảng Uyên là lễ hội lớn nhất trong năm của nhân dân huyện
Quảng Uyên, gắn với các yếu tố về lịch sử, tâm linh của miếu Bách Linh.
Miếu được xây từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó, đến thời nhà Nguyễn được
xây dựng lại hoàn toàn theo kiến trúc thời Nguyễn. Trước cổng có tam
quan, sân tiền đường, hậu đường và hậu cung, hoành phi, câu đối. Trên
cổng khắc 3 chữ “Bách Linh miếu”, có đắp nổi con rồng uốn khúc, xây bằng
gạch vồ (gạch thời Mạc), có bức trạm rồng ngậm ngọc, bên cạnh có chim
phượng cùng long ly tụ hội.
Phần
đặc sắc nhất trong phần lễ là màn “khai quan” cho rồng mở mắt. Rồng
được khai quan từ một mỏ nước (người dân địa phương gọi là bó Cốc Chủ -
mỏ nước ở dưới gốc cây cổ thụ). Lễ do một cụ cao tuổi, có uy tín làm chủ
lễ và một đội rồng gồm 15 người (3 người đánh trống, một người cầm quả
cầu và 11 người múa rồng) làm lễ tại mỏ nước. Khi ra mỏ nước, rồng không
được múa, không được đánh trống mà được bịt mắt bằng giấy bản, đến mỏ
nước, rồng nằm phục ở đó. Người chủ lễ thắp hương vái thiên địa, cầu xin
thần linh phù hộ cho người dân địa phương một năm làm ăn mưa thuận gió
hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no, hạnh phúc và xin được mở mắt cho
rồng. Cúng xong, chủ lễ cắt tiết con gà trống, lấy máu xoa vào hai mắt
rồng rồi bỏ giấy ở mắt rồng ra, lúc này rồng đã được mở mắt, sau ba hồi
trống nổi lên để đánh thức, rồng bắt đầu cử động từ đầu đến thân rồi
đuôi. Sau đó, người ta đánh trống thúc giục và rồng từ từ bay lên, rồng
bay quanh mỏ nước ba lần rồi đi vào miếu Bách Linh; trong miếu đã được
đặt lễ và thắp hương, rồng vào miếu vái ba lần, sau đó đi trong miếu một
vòng rồi ra ngoài.
Lễ
vật dâng lên tế lễ gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm
phẩm đỏ, 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra long trọng với 4 đoàn rước kiệu,
mỗi kiệu có 4 người khiêng, mặc lễ phục. Đầu tiên là kiệu rước ảnh Bác
Hồ, thứ hai là kiệu rước thần, thứ ba là kiệu pháo hoa, cuối cùng là
kiệu rước một con lợn quay, là phần thưởng cho đội thắng cuộc trong trò
chơi cướp đầu pháo. Theo sau đoàn rước kiệu là đoàn rước rồng, sau khi
làm thủ tục thắp hương tại miếu, đoàn rước rồng xuất phát đến Đền thờ
Nùng Trí Cao, Đền thờ Trần Hưng Đạo, sau đó đi khắp phố tới từng nhà. Đi
tới đâu rồng cũng được người dân tiếp đón rất nồng nhiệt, trang trọng.
Phần
hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ,
như: múa rồng, múa lân, tung còn, hát lượn, tranh đầu pháo... Trò chơi
tiêu biểu của lễ hội là trò cướp đầu pháo, đầu pháo làm từ chiếc vòng
sắt trang điểm tua ngũ sắc sặc sỡ, pháo được đặt trên một đài cao, sau
khi đốt pháo, chờ cho đầu pháo rơi xuống, các đội bắt đầu tranh cướp,
đội nào cầm được đầu pháo mang đến cho Ban Tổ chức là đội thắng cuộc.
Gần đây, khi có lệnh cấm đốt pháo, Ban Tổ chức đã tiến hành trò chơi
bằng cách đứng trên đài cao rồi tung vòng sắt (đầu pháo) ra cho các đội
tranh cướp như thường lệ. Theo quan niệm của người dân địa phương thì ai
bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát tài, phát lộc và
đem lại vinh dự lớn cho xã mình. Xã nào thắng cuộc sẽ được phần thưởng
là một con lợn quay trên kiệu trong lễ rước thần, cỗ kiệu cũng được để
lại cho xã đó hương khói cầu lộc một năm đến lễ hội pháo hoa năm sau,
địa phương này lại chuẩn bị một con lợn quay để lên kiệu, đoàn rước rồng
sẽ đến lấy làm lễ rước thần, đồng thời làm phần thưởng cho đội thắng
cuộc thi năm đó.
Theo
thời gian, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên đã tồn tại trong tâm thức nhiều
thế hệ người dân Quảng Uyên và trở thành nét đẹp tinh thần không thể
thiếu mỗi dịp xuân về.
Phát triển du lịch lễ hội ở Cao Bằng
Các lễ hội dân gian truyền thống ở Cao Bằng tổ chức chủ yếu ở
quy mô làng xã và mang đậm nét văn hoá của các dân tộc. Các lễ hội này
được tổ chức theo nghi lễ truyền thống, các trò chơi dân gian được khôi
phục, kết hợp với các hoạt động văn hoá thể thao như bóng đá, bóng
chuyền, văn nghệ quần chúng,… đã tạo thêm nét tưng bừng cho ngày hội.
Mỗi địa phương tuy cùng một chủ đề lễ hội, nhưng do điều kiện tự nhiên,
xã hội, văn hoá khác nhau nên cách thức tổ chức các lễ hội cũng khác
nhau. Điều đó càng làm tăng thêm sự đa dạng, phong phú cho các loại hình
lễ hội ở Cao Bằng. Đồng thời lễ hội cũng là nơi bảo tồn, giữ gìn những
giá trị của văn hoá, nghệ thuật truyền thống. Những câu hát Then, điệu
hát Sli, Lượn, Phongslư, Dá Hai, Hà Lều… với những giai điệu ngọt ngào,
da diết cùng những trò chơi dân gian thực sự hấp dẫn là những tiềm năng
du lịch văn hoá rất lớn của vùng đất Cao Bằng.
Nhằm khai thác những tiềm năng du lịch trở thành những sản
phẩm du lịch, điểm hẹn du lịch hấp dẫn, ngành du lịch Cao Bằng cần có
những giải pháp cụ thể và một kế hoạch đầu tư dài hạn. Trước hết, cần
nhận thức rõ bản sắc địa phương của tài nguyên du lịch thiên nhiên và
văn hoá như là mặt hấp dẫn của điểm đến du lịch. Trên cơ sở đó tiến hành
rà soát các tài nguyên du lịch văn hoá nổi trội (trong đó có các lễ
hội) mang đặc thù riêng của địa phương Cao Bằng để quy hoạch một chương
trình phát triển du lịch. Đặc biệt, phát triển các loại hình du lịch
theo hướng khai thác các thế mạnh của địa phương như: du lịch gắn với
cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng, sông suối, ghềnh thác ở Cao
Bằng; xây dựng tuyến du lịch gắn với văn hoá, lịch sử. Khôi phục và khai
thác, giới thiệu các di tích văn hoá, lịch sử đã bị thời gian và chiến
tranh tàn phá, chẳng hạn như đền Tam Trung (nay ở đường Lê Lợi - thị xã
Cao Bằng) thờ ba vị đầu tỉnh. Hoặc như đền Kim Pha, tức đền Bà Hoàng,
thờ mẹ Nùng Trí Cao, người đã được nhà sử học Mỹ James A.Anderson đánh
giá ngang tầm Bà Triệu vì đã cùng con trai dám chủ trương đem quân đánh
đuổi Đại Tống, đòi đất chia trả cho dân nước Nam…
Để bảo vệ những di tích văn hóa lịch sử, cần có sự đánh giá
thống nhất, kế hoạch phục chế, xây dựng những di tích này, đồng thời
tích cực tuyên truyền, quảng bá các sản phẩm du lịch văn hoá, lịch sử
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đẩy mạnh công tác nghiên cứu
thị trường, tăng cường nguồn đầu tư về cơ sở vật chất, khai thác các giá
trị văn hoá dân tộc độc đáo, đặc sắc phục vụ cho phát triển du lịch.
Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ cảnh quan môi trường của các
điểm du lịch, nâng cao nhận thức của cộng đồng cư dân bản địa và khách
du lịch trong việc bảo tồn, duy trì, tôn tạo các di tích văn hoá, lịch
sử, giữ gìn thuần phong mỹ tục, giữ gìn những giá trị văn hoá nguyên bản
của địa phương, giảm thiểu những tác động tiêu cực từ hoạt động du
lịch đến môi trường văn hoá hoặc thương mại hoá văn hoá bản địa.
Đối với công tác quản lý lễ hội truyền thống các cơ quan
chức năng cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các cấp
uỷ, chính quyền, đoàn thể ở địa phương để triển khai tổ chức lễ hội
trật tự, an toàn, đảm bảo không khí linh thiêng, chống mê tín dị đoan
cũng như việc khôi phục nguyên bản những hoạt động văn hoá dân gian của
lễ hội.
Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư, nâng cấp, tôn tạo và bảo vệ
di tích, danh thắng, tổ chức các hoạt động văn hoá truyền thống tạo
thành sản phẩm du lịch để thu hút và lưu giữ khách, đảm bảo cho sự phát
triển du lịch bền vững, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, quan tâm phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, khuyến
khích nhân dân để họ tích cực tham gia bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hoá truyền thống đặc sắc trong đó có những giá trị văn hoá của các
lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc, tạo nên sự đa dạng và phong
phú cho các sản phẩm du lịch.
Lễ hội truyền thống là loại hình di sản độc đáo trong kho
tàng văn hóa dân gian Cao Bằng. Thông qua nội dung, hình thức hoạt động,
lễ hội đã trở thành môi trường ưu việt giáo dục truyền thống tốt đẹp
của dân tộc về lịch sử văn hóa, về lòng yêu nước, thương nòi, đạo lý làm
người, biết ơn các bậc tiền bối,… Cùng với định hướng tốt, du lịch lễ
hội nói riêng và du lịch Cao Bằng nói chung sẽ ngày càng khởi sắc./.
Nguồn: Sưu tầm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét